Do vì khoảng hở đó quá ngắn ngủi và bạn thì không tập trung cảnh giác đủ mạnh, có lẽ bạn không thể thấy được sự khác biệt căn bản giữa cảm nhận, vốn là tri giác không suy nghĩ về cái đẹp, với việc đặt tên cùng giải thích vẻ đẹp ấy dưới dạng ý nghĩ: khoảng hở thời gian quá ngắn ngủi đến mức chúng dường như chỉ thuộc về một tiến trình duy nhất. Cho nên, đừng tìm hiểu quá khứ, mà hãy hiện trú trong khả năng của bạn. Ngay khi thực sự tha thứ, bạn đã giành lại sức mạnh của mình từ tâm trí, không khoan dung là bản chất đích thực của tâm trí, chỉ vì cái tôi do tâm trí giả lập, tức là tự ngã hư ngụy, không thể tồn tại nếu không có bất hòa và xung đột.
Sau đó, hãy quan sát xem điều gì xảy ra cho định kiến của người khác khi bạn không còn cung cấp năng lượng cho nó thông qua sự phản kháng. Sẽ hữu ích hơn nếu gọi nó là trạng thái ý thức mê muội/trạng thái bất thức (unconsciouness) hay sự điên rồ. Sự vô minh tạo ra cái quầng chứa nhóm đau khổ; còn ý thức chuyển hóa nó thành trí tuệ.
Có lẽ bạn đang bị lợi dụng, có lẽ hoạt động bạn đang tham gia vào thật là tẻ nhạt, có lẽ ai đó thân cận với bạn quả là không thực thà, hay nổi cáu, hoặc vô ý thức, nhưng tất cả đều không đáng có. Tôi đã thực hành thiền định, đã dự các buổi hội thảo, đã đọc nhiều tác phẩm về tâm linh, tôi cố gắng giữ tâm trạng không phản kháng – nhưng nếu ông hỏi liệu tôi đã tìm thấy sự thanh thản nội tại đích thực và kéo dài chưa, thì câu trả lời trung thực của tôi sẽ là “không”. Bạn có nghĩ rằng mình sẽ cần thêm bao nhiêu thời gian nữa mới có thể nói: “Ta sẽ không gây thêm đau khổ nữa” không? Bạn cần thêm bao nhiêu đau khổ nữa mới có thể thực hiện được việc lựa chọn ấy?
Phải chăng sự không phản kháng cũng được thực hành ở cách cư xử trong cuộc sống bên ngoài của chúng ta, như không phản kháng đối với bạo lực chẳng hạn, hay nó là thứ chỉ liên quan đến sự sống nội tại của chúng ta? Một số chuyên gia tâm lý cũng có khả năng làm tròn nhiệm vụ đó, nếu như họ đã vượt qua được ngưỡng tâm trí để có thể tạo ra và suy trì trạng thái hiện trú tỉnh thức mạnh mẽ trong thời gian cùng làm việc với bạn. Nó không thể luôn luôn ở đỉnh cao.
Thánh Paul diễn tả nguyên tắc phổ biến này bằng các mỹ từ như sau: “Mọi sự vật đều lộ rõ nguyên hình dưới ánh sáng mặt trời, và bất cứ điều gì phơi ra ánh sáng cũng đều biến thành ánh sáng ấy”. Đức Phật dạy rằng ngay đến hạnh phúc của bạn cũng là dukkha – phạn ngữ Pali có nghĩa là “khổ” hay “không hài lòng”. Phải chăng người ta có thể khám phá lại các giáo lý đã thất truyền về tầm quan trọng của thân xác hay xây dựng lại chúng từ các mảnh vụn hiện hữu?
Không, bạn không lừa dối bản thân. Về một phương diện nào đó, trạng thái hiện trú có thể so sánh với sự chờ đợi. Nếu trước hết bạn không lưu ý đến nó, thì xúc cảm ấy sẽ ngăn cản bạn tiếp xúc với cơ thể nội tại vốn nắm sâu bên dưới xúc cảm.
Bằng cách đó, bạn tách ý thức ra khỏi hoạt động của tâm trí và tạo ra một khoảng hở vô niệm, trong đó bạn rất tỉnh táo nhận biết mọi thứ, nhưng không hề suy nghĩ chút nào cả. Chúa Jesus đã dùng ẩn dụ về sự đợi chờ trong một số ngụ ngôn huấn thị của ngài. Nó chấp nhận tất cả để chuyển hóa tất cả.
Đừng chiến đấu chống lại thân xác, bởi vì làm như thế chẳng khác gì chiến đấu chống lại thực tại của chính bạn. hãy tập trung mọi chú ý của bạn vào cảm nhận, chứ không vào con người, sự kiện, hay hoàn cảnh dường như đã gây ra nỗi đau khổ ấy. Đặc biệt trở lại điều bạn nói – chắc chắn là đúng khi bạn chấp nhận nỗi bực dọc, tính khí thất thường, cơn tức giận, và vân vân của mình, bạn không còn bị buộc phải biểu thiện chúng ra một cách mù quáng nữa, và bạn cũng bớt phóng chiếu chúng lên những người khác.
Chính tâm trí đã nổi cơn đó. Con người phối ngẫu của cô ấy lại vốn sẵn có các khuôn mẫu vô minh của chính anh ta, và các khuôn mẫu này bổ sung cho cô. Thế là sợ hãi nảy sinh, rồi xung đột bên trong và bên ngoài bạn trở nên quen thường trong cuộc sống của bạn.
Thông qua sự vâng phục, nguồn năng lượng tâm linh đến với thế giới này. Họ đã đầu tư khá nhiều htời gian vào nhận thức giả tạo về cái tôi của mình. Tôi gọi nó là sự hiện trú.